(32)

Thiên Chúa quan phòng

trong việc phát triển

Vương Quốc của Thiên Chúa

 

H

ôm nay, như bài giáo lý lần trước, chúng ta cũng rút ra được vô khối tư tưởng của Công Đồng Chung Vaticanô II về tình trạng lịch sử của con người tân tiến ngày nay. Một đàng thì con người được Thiên Chúa gửi tới để thống trị tạo sinh và làm chủ chúng, đàng khác, là một tạo vật, chính họ lại là một chủ thể trước sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công quan phòng.

            Ngày nay, hơn bao giờ hết, con người đặc biệt nhậy cảm đối với sự cao cả và tình trạng tự lập của việc mình làm như là một kiểm chứng viên và là một nhà lãnh đạo các quyền lực thiên nhiên. Tuy nhiên, người ta cũng phải nhận rằng có một trở ngại trầm trọng trong việc khai phóng và phát triển thế giới. Trở ngại trầm trọng này là do tội lỗi cũng như do sự dữ luân lý như vây cánh của tội lỗi. Hiến Chế Gaudium et Spes của Công Đồng đã cung cấp những chứng cớ rõ ràng về tình trạng này.

            Công Đồng nói: “Mặc dù được Thiên Chúa dựng nên trong tình trạng thánh thiện, con người, ngay từ bình minh lịch sử của mình, đã lạm dụng tự do của mình theo sự thôi thúc của tên gian ác. Con người đã tự phản lại Thiên Chúa và tìm đạt mục đích của mình ngoài Thiên Chúa” (Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 13). Bởi thế, hậu qủa không thể tránh được là, “trong khi việc phát triển mang lại tiện ích lớn lao cho con người thì nó cũng đưa đến một chước cám dỗ mạnh mẽ. Vì một khi cấp trật giá trị bị lẫn lộn, xấu chung với tốt, thì cá nhân cũng như phái nhóm sẽ chỉ chú trọng đến tiện ích riêng tư, bất kể đến tiện ích của người khác, của nhóm khác. Bởi thế mới xẩy ra cảnh thế giới hết còn là một nơi huynh đệ đích thực. Riêng vào thời của chúng ta đây, quyền lực phóng đại của nhân loại đang đe dọa hủy diệt chính nòi giống loài người” (cùng nguồn, đoạn 37).

            Con người tân tiến ngày nay có lý để nhận thức về vai trò của mình, thế nhưng, “nếu việc thể hiện, độc lập của các việc làm trần thế, có nghĩa là các vật tạo thành không lệ thuộc vào Thiên Chúa, cũng như có nghĩa là con người có thể sử dụng chúng không cần qui chiếu về Đấng Hóa Công của chúng, thì ai còn nhận biết Thiên Chúa sẽ thấy rằng ý nghĩa này sai lầm là chừng nào. Vì không có Đấng Hóa Công, tạo thành sẽ biến mất. Tuy nhiên, về phần mình, tất cả mọi tín hữu thuộc bất cứ tôn giáo nào lại luôn luôn nghe thấy tiếng mạc khải của Ngài nơi sự tỏ bầy của các tạo vật. Thế nên, khi nào Thiên Chúa bị lãng quên thì tạo vật tự mình sẽ phát triển mù mờ” (cùng nguồn, đoạn 36).

            Chúng ta đặc biệt nhắc lại đoạn văn khiến chúng ta nắm được “chiều kích khác” của việc thế giới tiến hóa theo lịch sử mà Công Đồng đã hằng trông mong. Bản Hiến Chế viết: “Thần Linh của Thiên Chúa, Đấng hướng dẫn việc giãi bầy của thời gian và canh tân bộ mặt trái đất, bằng việc quan phòng diệu kỳ của mình, không vắng bóng trong việc phát triển này” (cùng nguồn, đoạn 26). Để chế ngự sự dữ tức là muốn làm sao thấy được con người phát triển về mặt luân lý, nhờ đó phẩm vị con người được bảo toàn, và cũng tức là thỏa đáng những đòi hỏi chính yếu cho một thế giới “nhân bản hơn”. Theo quan điểm ấy, vương quốc của Thiên Chúa, đang phát triển trong lịch sử, bằng một đường lối nào đó, tìm được “chỗ đứng” của mình cùng với các dấu hiệu của việc hiện diện tác hiệu của mình.

            Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh một cách rất rõ ràng tầm quan trọng về đạo lý của việc tiến hóa, khi tỏ cho thấy lý tưởng đạo lý của một thế giới “nhân bản hơn” hợp với giáo huấn của Phúc Aâm là chứng nào. Trong khi phân biệt xác thực giữa việc thế giới phát triển và lịch sử cứu độ, cùng một lúc Công Đồng tìm cách chỉ cho thấy trọn vẹn tất cả những liên hệ giữa hai lãnh vực này: “Dù phải cẩn thận phân biệt việc tiến bộ trần thế với việc phát triển vương quốc của Chúa Kitô, ở chỗ việc tiến bộ trần thế này có thể góp phần làm cho xã hội loài người được trật tự tốt đẹp hơn, thì cũng phải có một quan tâm sống còn đối với vương quốc của Thiên Chúa. Bởi vì, sau khi chúng ta vâng lời Chúa, và theo Thần Linh của Người, đã mang lại cho đời  những giá trị của phẩm vị con người, tình huynh đệ và niềm tự do, tức là tất cả những thành qủa tốt lành do bản tính và công cuộc của mình tạo được, chúng ta sẽ gặp lại chúng ở một tình trạng vô tì tích, sáng bóng và biển đổi, khi Chúa Kitô trao lại cho Chúa Cha: ‘một vương quốc vĩnh hằng và đại đồng, một vương quốc sự thật và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình’. Trên thế gian này, vương quốc đó đã hiện diện cách nhiệm mầu. Khi Chúa trở lại thì vương quốc này sẽ được hoàn toàn triển nở” (cùng nguồn, đoạn 39).

            Công Đồng đã diễn đạt niềm xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng: “Giáo Hội nhận biết rằng, những yếu tố xứng đáng được tìm thấy trong các biến chuyển của xã hội hôm nay, nhất là việc tiến hóa hướng đến tình trạng hiệp nhất, một tiến trình của việc xã hội hóa lành mạnh cũng như của việc hợp tác trong các lãnh vực dân sự và kinh tế. Việc phát động tình trạng hiệp nhất thuộc về chính bản tính sâu xa của Giáo Hội, vì Giáo Hội, ‘bởi liên kết với Chúa Kitô, là một dấu bí tích và là một khí cụ cho việc hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa cũng như cho việc hiệp nhất toàn thể nhân loại’. Thế nên, Giáo Hội tỏ cho thế giới thấy rằng một tình trạng hiệp nhất đích thực, theo xã hội và về bề ngoài, là kết qủa bởi một tình trạng hiệp nhất trí lòng, tức là, bởi đức tin và đức bác ái, những yếu tố làm cho tình trạng hiệp nhất này được vững chắc không thể chuyển lay trong Chúa Thánh Thần. Vì sinh lực mà Giáo Hội có thể chuyển thông cho xã hội con người tân tiến ngày nay, là đức tin và đức bác ái đó, mới thực hiện được những gì sống còn, chứ không phải ở tại bất cứ một thế lực ngoại tại nào do phương tiện loài người làm nên” (cùng nguồn, đoạn 42).

            Vì lý do này, có một sự liên hệ sâu xa, thậm chí có một sự đồng hóa tối thiểu được hình thành giữa những phần chính yếu của lịch sử “thế gian” và việc tiến hóa với lịch sử cứu độ. Dự án cứu độ đâm rễ sâu trong những ước vọng thật sự nhất cũng như trong những mục tiêu tối hậu của nhân loại. Việc cứu chuộc cũng đang được tiếp tục hướng về nhân loại “ở trong thế gian”. Giáo Hội luôn giao tiếp với “thế gian” ở lãnh vực của những ước vọng và những mục tiêu tối hậu đó của nhân loại. Trong mối giao tiếp này, lịch sử cứu độ trôi riêng biệt theo giòng thời gian của mình lại nhập chung một nhánh với giòng lịch sử thế giới. Ngược lại – những chiến thắng có thực của nhân loại, những chiến thắng đích thực của lịch sử thế giới, cũng là một “hạ tầng” của vương quốc Thiên Chúa trên thế gian (x. Đức Hồng Y Karol Wojtyla, Nơi Các Nguồn Mạch Canh Tân, Học Hỏi về việc thực thi Công Đồng Chung Vaticanô II, Collins, London, 1981, pp.166-178).

            Về vấn đề này chúng ta cũng đọc thấy trong Hiến Chế Gaudium et Spes: “Để bảo đảm, hoạt động nhân bản phải làm sao liên hệ với con người. Như nó phát xuất từ con người thế nào, nó cũng phải qui về con người như vậy… Hiểu cho đúng đắn thì loại phát triển này có giá trị lớn lao hơn mọi của cải có thể thu tích được. Con người qúi giá ở cái họ là hơn cái họ có. Cũng thế, tất cả những gì con người làm để đạt được mức độ công bình chính trực cao hơn, một tình huynh đệ lớn rộng hơn, một điều kiện nhân bản hơn nơi các liên hệ xã hội, đều đáng giá hơn các tiến bộ về kỹ thuật… Thế nên, tiêu chuẩn cho hoạt động nhân bản là ở chỗ này: nó phải hợp với thiện ích chính đáng của nhân loại theo dự định và ý muốn thần linh, và phải giúp cho con người, là những cá nhân cũng là những phần tử của xã hội, theo đuổi trọn vẹn cùng hoàn tất được ơn gọi của mình” (x. đoạn 35 và 59).

            Văn kiện trên còn viết: “Cấp trật xã hội này cần phải được cải tiến liên tục. Nó phải được căn cứ vào sự thật, được xây dựng trên công bình chính trực và được sinh động bởi yêu thương; trong tự do, nó phải phát triển mỗi ngày, hướng đến một tình trạng quân bình nhân bản hơn. Một tình trạng cải tiến nơi thái độ cũng như nơi nhiều đổi thay trong xã hội sẽ phải xẩy ra, nếu đạt được những mục tiêu này. Thần Linh của Thiên Chúa, Đấng theo việc quan phòng kỳ diệu của mình hướng dẫn việc giãi bầy thời gian và canh tân bộ mặt trái đất, không thiếu vắng trong cuộc phát triển này” (đoạn 26).

            Việc thích ứng cho Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt và tác động trong việc giãi bầy lịch sử được thực hiện nhờ việc liên tục xem xét cũng như liên tục trung thành đáp lại tiếng lương tâm: “Trong việc trung thành với lương tâm, Kitô hữu cũng liên kết với các người khác trong việc tìm kiếm sự thật cùng việc giải quyết chân chính cho nhiều vấn đề nổi lên trong đời sống cá nhân liên quan đến những tương giao xã hội. Bởi thế, lương tâm đứng đắn càng vững vàng thì càng có nhiều người và nhiều nhóm loại trừ đi những chọn lựa mù quáng và sẽ nỗ lực theo những tiêu chuẩn luân lý khách quan” (cùng nguồn, đoạn 16).

            Trong tình trạng hiện tại của con người, Công Đồng đã thực tế nhắc lại việc hiện diện của trở ngại thực sự nhất cho việc phát triển con người và nhân loại – đó là sự dữ luân lý, là tội lỗi, như hậu qủa của cái mà “con người bị phân mảnh nơi chính mình. Từ đó, tất cả sự sống con người, dù cá nhân hay tập thể, đều cho thấy có một cuộc đối chọi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Thật vậy, con người thấy rằng, tự mình, họ không thể chiến đấu với những tấn công của sự dữ được, mọi người đều cảm thấy mình như thể bị trói buộc” (cùng nguồn, đoạn 13).

            Toàn thể lịch sử con người là một câu truyện về “một cuộc đối chọi khủng khiếp chống lại các quyền lực tăm tối đang thấm nhập tất cả lịch sử con người. Cuộc chiến đã xẩy ra từ ngay thuở ban đầu của thế giới và sẽ còn tiếp tục cho đến ngày cùng tháng tận, như Chúa đã chứng thực (x.Mt.24:13; 13:24-30, 36-43). Bị kẹt trong cuộc xung khắc này, con người bắt buộc phải liên tục gồng mình lên, nếu họ muốn gắn bó với những gì thiện hảo, họ cũng không thể nào chiếm được tình trạng chính trực của mình mà lại không có những cố gắng cả thể cùng với sự hỗ trợ của ơn Chúa” (cùng nguồn, đoạn 37).

            Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng, nếu tầm vóc phát triển của vương quốc Thiên Chúa không đồng nhất với việc tiến hóa của thế giới, thì dầu sao vương quốc của Thiên Chúa cũng vẫn ở trong thế gian, trước hết, ở trong con người là thành phần sống động và hoạt động trong thế gian. Kitô hữu biết rằng, với việc dấn thân phục vụ cho tình trạng tiến bộ của lịch sử, và với sự hỗ trợ của ơn Thiên Chúa, họ cộng tác vào việc phát triển vương quốc của Ngài, hướng về tầm vóc viên trọn theo lịch sử và cánh chung của dự án Quan Phòng thần linh.

 

(Bài Giáo Lý ngày 25 tháng 6 năm 1986)